Trang

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Còn trong sử sách

Ngói đã rêu phong
Chuyến đi đã kết thúc, hình chụp cũng khá nhiều. Nhưng để viết thành một bài thì... thật khó! "Trưởng đòan" viết xong bài chùa Dâu, đánh máy đã xong, in ra đọc lại, phải sửa chữa, sửa chữa, cho đến giờ vẫn chưa xong. Người đọc chờ mãi chẳng thấy tăm hơi, nhắn tin hỏi thăm. 

Ba ngôi chùa chính là chùa Dâu - Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi; chùa Kiến Sơ - Tổ Vô Ngôn Thông; chùa Trấn Quốc - Tổ Thảo Đường.

Lúc vào chùa Kiến Sơ, tìm mãi chẳng thấy tổ Vô Ngôn Thông ở đâu, tìm hỏi mới được chỉ đến một pho tượng không ghi tên. Di tích thì chẳng còn gì. Chỉ còn trong sử sách.

Chỉ còn trong sử sách, họa hoằn có một bia đá ghi năm tháng, cũng mờ nhạt.

Đôi khi nghe kể sự tàn phá không còn vết tích, người viết phải thốt lên, "chiến tranh vô tình làm sao!" và có nhà khảo cổ cũng đã thốt "Thời gian vô tình làm sao!". 

Người sau xây dựng lại, đọc trong sử sách, mường tượng lại hình dáng người xưa và tạc tượng. Như khi ghé chùa Hương Hải, ngày xưa ni sư Diệu Nhân trụ trì. Vị trụ trì nơi đó ngày nay, đưa vào nhà Tổ, nói rằng, vì Thiền sư Diệu Nhân là công chúa, nên ắt hẳn phải đẹp, và tạc tượng như thế này. Cũng may nơi đây còn một tấm bia ghi "Hương Hải tự", năm tháng thì chưa đọc ra, cần có chút thời giờ tra cứu.

Mọi thứ dường như vô tình. Nếu không có bộ sách "Thiền Uyển Tập Anh" ghi lại, thì mọi thứ biến mất, như chưa từng có trên đời.

Xin hẹn, những bài viết sẽ ghi lại dần, vì những gì chụp hình được, đều là sự trùng tu thời gian gần đây. Thoảng hoặc mới có một bia cổ cách đây vài trăm năm. Còn ngàn năm xưa, thì đành:

Vạn sự thủy lưu thủy,
bách niên tâm ngữ tâm!

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

chùa Dâu (tt)

(Tiếp theo 2)

Có nơi rêu phong, có nơi trùng tu, có nơi tu sửa… Nếu không có Hòa thượng phục hưng lại dòng thiền, thì chính mình nếu có đi Bắc cũng chỉ là du lịch tham quan. Và chùa Dâu chỉ là những bài đã học trong Sử Phật Giáo Việt Nam, rằng đầu công nguyên đã có sự phát triển Phật giáo tại nước ta sớm nhất, hơn cả bên Trung Hoa. 
Ngày xưa đi chùa, thấy nơi hậu Tổ thờ ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, nghe tên chẳng có một ấn tượng gì.


Bây giờ đứng nơi đây, hỏi thăm tượng Tổ, được chỉ vào một nơi, sau khi chụp hình, thấy hoa quả che khuất, đoàn bèn xin phép dời lọ hoa để ghi lại bức tượng được ghi tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi.


Giống hay không thì không ai trả lời được, như đức Phật, ở quốc độ nào thì tạc theo người ở quốc độ đó. Thêm nữa, tượng tạc tùy cái nhìn của người tạc. Có những bức tượng, người mình quen biết, khi nhìn tượng thấy chẳng giống chút gì, lòng xốn xang, nhưng rồi thầm nghĩ, vài trăm năm nữa, người sau nhìn thấy bức tượng đó cho là thiền sư… Thì cũng như mình bây giờ nhìn các tượng được tạc tại các chùa mà thôi. Lúc đó có ai mà bận tâm có giống hay không.

Tuy nghĩ thế nhưng có những bức tạc, thật lòng cũng còn chưa đồng ý. Vì ý người người tạc và ý con cháu của bức tượng chẳng “đồng” nhau. Có lẽ người tạc phải cho là giống mới đem đến tặng chủ nhân chứ nhỉ. Mới biết cái đất-nước-gió-lửa này khi đã tu hội ổn định thêm vào chút tâm ý thì phiền toái giữa mình và người phát sanh. Chủ nhân thì chỉ cười còn con cháu thì lắm phen điên đảo.

Từ hành lang nhìn sang chánh điện qua hàng hoa mộc, hoa mộc nơi chùa miền Bắc khá nhiều. Nơi đây gọi chánh điện là Tam Bảo. Ban đầu chưa quen, trong khi mình đi tìm hỏi Chánh điện, cứ nghe mời vào Tam Bảo!

Nhưng đến giờ, đang ghi lại, vẫn chưa định hình được vị trí các nơi trong chùa. Dự định ngày mai, sẽ trở lại chùa Dâu lần nữa, nhưng đủ duyên hay không, chỉ có duyên mới biết.

[Đến đây tạm dừng chùa Dâu, để đi tiếp qua chùa Phi Tướng.
Phần chi tiết trong chùa Dâu xin chờ đọc bài trưởng đoàn, đã viết xong, đang xem lại]

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Chùa Dâu (tiếp theo)

Bây giờ nói tiếp chuyện đi tham quan.

Từ cổng nhìn vào, chụp được hình thế này

Đến dãy nhà ngang, nơi đó viết thư pháp đầu năm. 













Nhìn "Ông Đồ" ngày nay, nhớ Ông Đồ sống mãi trong lòng người học trò miền nam - chỉ biết hoa đào và ông Đồ qua bài thơ, chớ nào biết hoa đào là hoa gì! Bao nhiêu năm qua, thời học trò đã qua, mà bài thơ còn đọng lại.

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay"

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên)
1936

"Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ", thật đúng với tâm trạng người đang đứng trước ngôi chùa cổ. Bâng khuâng thật các bạn nhỉ. 

May mắn tìm được một hình sơ đồ (Sẽ vẽ lại sơ đồ chi tiết sau), giúp định hình cách bố trí trong chùa.

Qua dãy nhà ngang đến tháp Hòa Phong. Nhìn chú sóc và chú cừu đá. Chưa hiểu vì sao lại là con cừu nhỉ. Và nơi tháp lúc nào cũng đông đảo người đứng quanh chụp hình. Chuyện về tháp khá dài, các bạn sẽ đọc nơi bài viết của trưởng đoàn. Còn bây giờ chúng ta thưởng thức 18 vị La Hán ở hai hành lang dọc hai bên nhà chính.

( hình này bên trái. Tượng bằng đất)
9 tượng này bên tay trái, hình ảnh nhìn cũng khá sống động
Các hình tượng La Hán mỗi chùa tạc một khác, có những nơi tạc đến 500 vị La Hán, nhìn như một hội chúng, mỗi người làm một việc. Có khác chúng ta chỉ ở điểm, các vị làm với tâm vui vẻ, không chấp vào việc mình làm. Mình khó là La Hán chỉ vì: 

Đời mấy ai lợi danh không màng đến,
Đời mấy ai luôn làm mà công quên. (nhạc thầy Huệ)

Cảnh nào cũng nhắc sự trở về để khỏe tâm, chỉ tiếc là tâm bận rộn quá, không thấy gì ngoài những điều tâm đang chú mục.

(Còn tiếp)


Thứ Tư, 17 tháng 2, 2016

Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi

Nhắc đến Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, xin mời đọc.

Thiền và những thực tiễn trong đời sống

Đôi lời
Ngày nay, mọi thứ đều đòi hỏi phải thực tế, thực tiễn và ít nhất ở một nghĩa nào đó phải thiết thực với đời sống.
Ngôn ngữ là chết hay sống. Những người đọc kinh sách thường bị cho là bám vào chữ nghĩa chết, vào cặn bã của cổ nhân.
Từ đó những gì dính dáng đến chữ nghĩa dường như … bất khả.
Tôi cũng tin thế. Nhưng sau ngẫm lại, thì xin có đôi lời, cho là nói rõ lại một cách nhìn, có thể riêng của chúng tôi. Đức Phật có dạy rằng, khi phát biểu điều gì hãy nói “Đây là ý kiến của riêng tôi, không nên cho rằng ý kiến mình là chân lý”. Điều đó đúng từ ngàn xưa tới giờ. Khi hai người cùng thảo luận, thì rắc rồi bắt đầu khi ý tôi và ý bạn không tương đồng.
Chúng ta chỉ thể nói về một điều gì đó khi thực sự thấy điều đó đang giúp ích cho chính chúng ta. Trong một quầy bách hoá có quyền lựa chọn và mua về những gì chúng ta cần. Có thể thực phẩm chọn không giống nhau, nhưng mục đích thì giống nhau.
Nhắc đến thiền, một danh từ mà dường như rất khó một định nghĩa chính xác và được cùng chấp nhận. Danh từ phát xuất từ đâu, thử ngẫm xem một dân tộc với hơn bốn ngàn năm văn hóa, chắc hẳn ít nhiều cũng có một cái nhìn xuyên suốt những gì có mặt trên quê hương mình.
Nên thay vì có một định nghĩa, chúng tôi xin được kể lại đôi chuyện thiền đọc trong sử sách, xem ra gần gũi với đời thường. Vì Phật có nói pháp là nói cho chúng sinh như chúng ta có mặt nơi thế gian đầy phức tạp rắc rối này, các Tổ có chỉ dạy cũng chỉ dạy cho chúng ta chớ đâu cho ai khác.
1- Mồi đuốc về phương Nam

Bảng truyền thừa của thiền tông, dòng thiền Việt nam bắt đầu từ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (?-594)[1], đồng thời với tổ Đạo Tín (580-651)[2].

Đời thứ 1
Đời thứ 2
Đời thứ 3
Đời thứ 4
Bồ-đề Đạt-ma[3]
菩提達
(?-528/ 536)
Huệ Khả
慧可
(487-593)

Tăng Xán
(?-606)
Đạo Tín

Tì-ni-đa-lưu-chi
(Vinītaruci)

Tỳ-ni-đa-lưu-chi là đệ tử của Tam Tổ tăng Xán (?-606), và ngược dòng lên mãi đến với câu chuyện Đức Thế đưa cành hoa lên, Ca Diếp mỉm cười, để lại cho ngàn sau một công án là “niêm hoa vi tiếu”[4]. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên[5] ghi rằng, một hôm trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn đưa cành hoa lên, ngài Ca-diếp mỉm cười, thế tôn bảo “ta đem chánh pháp thanh tịnh trao cho ông, ông hãy truyền khắp, chớ để đoạn diệt”. Các bản lục ghi sai khác nhau đôi chút trong cách hành văn. Nhưng từ đó lưu truyền một thuật ngữ “chánh pháp nhãn tạng” mà về sau này, ngài Đạo Nguyên (Dogen)[6] tổ khai sáng tông Tào Động tại Nhật Bản viết một quyển tựa đề “chánh pháp nhãn tạng” bằng tiếng Nhật, hiện còn thấy trong Đại Chính Tân Tu Đại tạng Kinh.
Mọi việc đúng ra chỉ cần ngắn gọn, nhưng nếu thấy người đối diện chưa hiểu, mới nói thêm, và nói mãi. Chư Phật chư tổ vì tâm thiết tha muốn cho người học hiểu được và nhận ra, nên các ngài mới nhiều lời. Đôi khi những chuyện nhỏ nhặt trong đời sống, khi nói ra, thấy người đối diện không hiểu, đáng ra không nói cho xong. Vì không sức đâu mà nói với người không hiểu ý mình. Nếu vậy, thì chỉ việc học bình thường ở cuộc đời, không bận tâm chi soạn nhiều sách cho một môn học, đủ cách giảng giải chỉ cho một môn học, chỉ cốt cho người học, đọc quyển này chưa hiểu, tìm đọc thêm quyển khác và với vô số bài tập giúp người học giải cho quen. Chỉ một môn học nhỏ mà đã biết bao công sức của các bậc thầy, đó là với những con số với những hiện tượng khoa học trước mắt, còn phải nhiều lời đến thế. Nay nói đến tâm, nếu chúng ta không hiểu thì thôi, các ngài không nói nữa. Có lẽ đến bây giờ, hay đến kiếp này mình vẫn còn lao đao lắm chưa biết đâu manh mối lối trở về.
May mắn, chúng ta được các ngài với tâm lão bà từ bi, nói mãi, nhắc mãi, nắm tay dắt đi, cho đến khi chúng ta đi được. Lời nào của các ngài cũng là lời “sống”, là lời nhắc cho chúng ta giữa cuộc đời này, nếu một lần nghe được, hiểu được, nhận được là chút nhân duyên từ nhiều kiếp đã vun bồi.
Hiện nay vào các chùa, nơi hậu tổ thường thấy thờ tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi, vị tổ đầu tiên truyền thiền về phương Nam theo lời dạy của Tam Tổ Tăng Xán. Cũng có thể coi là ngài vị tổ thứ tư sau Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma - người đem thiền từ đất Thiên Trúc về phương đông.
Sư (Tỳ-ni-đa-lưu-chi) thưa: Đệ tử lâu nay không được an, (nay) nhờ Hoà thượng từ bi. Xin nguyện theo hầu ngài.
Tổ (Tăng Xán) bảo: Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. [7]
Đến năm 580 Sư sang Giao Châu trụ trì chùa Pháp Vân.
Từ đó mở đầu cho dòng thiền về phương Nam rực sáng.
*
Những lời các bậc tiền bối còn để lại trong sử sách, nếu thích hợp với nhân duyên của chúng ta vẫn đem đến nhiều lợi lạc trong đời sống, trước nhất đó là biết được cách làm tâm an ổn. Từ sự an bình, giải quyết công việc thường ngày trên căn bản đó với cái nhìn bình tĩnh chậm rãi.
Những bản kinh hoặc ngữ lục đôi khi quá khó hiểu với một tâm trí quen suy luận phán đoán so sánh đối chiếu, nhưng cũng không ngại gì, bởi một môn học đời thường vẫn còn cần thời gian lâu xa mới có thể ứng dụng được trong cuộc sống. Nên không có gì lạ với những gì chúng ta chưa nhận ra ngay được. Với năm tháng, mọi việc thấm dần cho đến lúc nào đó, thấu được những gì mà bấy lâu nay không hiểu.




Vào Đời  Chu Đại Tường[8] nhằm tháng 3 năm Canh Tí (580) đến nước ta[9] ở tại chùa đó.
Sư từ Quảng Châu đi về phương Nam đến chùa Pháp Vân[10], dừng lại nới đó. Sử sách ghi Sư dịch kinh và giảng dạy. Những bản kinh Sư dịch vẫn còn nhiều bàn luận, và mãi cho đến bây giờ chúng ta vẫn còn đôi chút băn khoăn về những gì mình đang đọc.
Một hôm Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:
Tâm ấn chư Phật,
ắt không lừa dối,
tròn đồng thái hư,
không thiếu không dư,
không đi không lại,
không được không mất,
chẳng một chẳng khác,
chẳng thường chẳng đoạn,
Vốn không có chỗ sanh,
Cũng không có chỗ diệt,
Cũng chẳng xa lìa, chẳng không xa lìa.
Vì đối vọng duyên tạm đặt tên vậy.
Cho nên ba đời chư Phật cũng theo như vậy,
Các vị tổ sư cũng theo như vậy mà được.
Ta cũng theo như vậy, ông cũng như vậy.
Cho đến hữu tình, vô tình cũng như vậy mà được.[11]

Tâm ấn chư Phật ắt không lừa dối. Các Tổ sư một khi nhận được chỗ sống của mình đều thốt những câu tương tự như vậy. Chỉ có chúng ta vì chưa nhận được nên thường luận bàn qua sự nhận hiểu, nên bị rầy rà quở trách bởi hay dẫn những câu này ra nói lúc bàn bạc Kinh điển, ngữ lục.
Trên sự thông minh và hiểu biết, rất dễ dàng hiểu qua suy luận những lời nói như thế. Trong lúc tâm chưa thật sự cảm nhận được chỗ vượt qua đối đãi bình thường. Đối với một việc nào đó, một người nào đó, hoặc là chúng ta quan tâm hoặc không quan tâm. “Sanh” ra quan tâm rồi “diệt” đi sự quan tâm đó. Chỗ tâm sanh tâm diệt cũng chưa nhận ra nên đâu làm sao nhận được chỗ tâm không sanh không diệt.
Bởi thường chạm mắt đến là sanh! Mà mãi luận bàn đến chỗ không sanh không diệt, trong khi lời dạy của các ngài chỉ nhắc chúng ta sống mà thôi.
Nhưng sống thế nào, với những lời kệ xem ra chẳng đúng vào đâu ở cuộc đời, nhất là thế hệ trẻ ngày hôm nay?
Bắt đầu từ đâu? Quả là một câu hỏi thật khó trả lời.
Đôi khi chúng ta thắc mắc rất nhiều việc bên ngoài, nhưng việc dễ dàng thấu đáo nhất là những vọng động trong tâm mình, lại không nhìn ra. Có lẽ đó là đầu mối đầu tiên để mở gút ra, dễ dàng nhất và gần gũi nhất, vì không ai gần mình hơn những “suy nghĩ” dấy động trong tâm.
Không thiếu không dư, không đi không lại… Thật khó mà cảm nhận được, chỗ không thiếu không dư, vì thường, không nói là thiếu mà mở miệng nói ra là dư. Việc hằng ngày, có nhiều việc, không mở miệng nói, thì không xong mà mở miệng ra thì lại nói dư rồi. Chúng ta vẫn thường băn khoăn tự hỏi, nên nói hay không nên nói. Rất nhiều tư vấn để giúp đỡ, khuyên nói những gì cần và không nói những không nên nói. Nhưng cũng không giải quyết được nhiều, vì tâm tư chúng ta vẫn không yên với những lời tư vấn đó.
Cuối cùng là thế nào? Nên hiểu thế nào?
Vốn vì tâm thường vọng động, nên chỗ chỉ của các ngài chúng ta không cảm nhận được ngay, chờ một gian thấm dần chín muồi như các ngài, nhân một câu nói hiểu sâu được ý chỉ. Trong Ngũ Đăng có ghi lại một mẩu chuyện sau:
Tăng hỏi thiền sư Tào Sơn: Thanh Khoát con nghèo khổ, xin thầy cứu giúp.
Sư gọi: Xà-lê Khoát!
Tăng lên tiếng: dạ!
Sư bảo: Rượu Thanh Nguyên sẵn của nhà, uống xong ba chén vẫn còn nói chưa thấm môi.
[Về sau Huyền Giác nói: Chỗ nào mà nói là ông ta uống rượu].
 (Ngũ Đăng Hội Nguyên, Tào Sơn Bản Tịch[12])
Ngài Tào Sơn thuộc hệ Thanh Nguyên[13]. Mẩu chuyện này thú vị đến nỗi, về sau Vô Môn Huệ Khai đưa vào tắc 10 trong Vô Môn Quan với lời bình không kém phần ý vị.
Đôi khi bình tâm suy xét lại chuyện mình, cũng vỡ lẽ ra đôi điều. Chỉ do quan niệm riêng, mình cảm thấy thiếu điều này điều kia, nhưng ngẫm lại kỹ, thì chỉ là một thói quen nào đó. Các ngài thường lưu ý chúng ta khi hít thật sâu, trước khi thở ra có một khoảng lặng rất vi tế, lời chỉ tuy rõ ràng nhưng cũng khó mà để ý được khoảnh khắc đó. Đời sống vốn gấp gáp vội vàng, nên rất nhiều khoảnh khắc hạnh phúc bình yên mình đã để vuột qua. Những lời nhắc này tuy có thể xa lạ, nhưng chắc hẳn có một điều gì đó, khiến tâm tư chúng ta phải dừng lại trên những lời nhắc này, ít nhất một lần này đây.

“Cho nên ba đời chư Phật cũng theo như vậy,”(Tam thế chư Phật diệc dĩ như thị).
Như thị là một danh từ rất quen thuộc trong mỗi câu mở đầu đoạn kinh, “như thị ngã văn”. Nhưng “như thị” thì thật khó mà cảm nhận cho hết.
Như vậy! Như vậy!
Với một chuyện xảy ra, nhiều người kể diễn biến câu chuyện. Kể xong, đều kết luận, chuyện đã xảy ra như vậy. Nhưng mỗi người kể có sai khác. Cái sai khác đó chính là mỗi người kể theo cái nhìn của mình, đúng hơn là định kiến của mình. Nên những cái như vậy không như vậy.
Nếu để ý được những cái như vậy trước mắt ta, đừng chen vào sự phán đoán thì chắc không đến nỗi như ngày hôm nay.
Một bài kệ của một vị Tổ mở đầu dòng thiền về phương Nam mà đối với chúng ta còn quá xa lạ, nên tổ Trúc Lâm Đại đầu đà[14] thường nhắc khi thấy cảnh bàn nói suông: “Bàn thiền tợ thánh, trước cảnh như ngu”. Để nhắc việc học hiểu và ứng dụng không thể rời nhau.
Đường vạn dặm đều bắt đầu từ cái nhấc chân đầu tiên. Hiểu được chính mình là khởi điểm có thể cảm nhận những gì đang thắc mắc lâu nay.
Ngọn đuốc sáng đã được mồi về phương Nam. Điều đó rất có ý nghĩa trong việc học hỏi của chúng ta, giữa thế kỷ này. 



[1] Tiểu sử đầy đủ của tổ Tì-ni-đa-lưu-chi比尼多留支 xin đọc trong:
- Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, 1999
- Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, 1999
[2] Đạo Tín道信 là vị Tổ thứ tư Thiền tông Trung Quốc, nối pháp Tam Tổ Tăng Xán僧璨
[3] Tổ thứ 28 của Ấn Độ và là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc. Ngài là con của Quốc vương nước Hương Chí, thuộc Nam Thiên Trúc, học đạo với Tổ Bát-nhã-đa-la và kế thừa Tổ.
[4]拈花微笑
[5] Ngũ Đăng Hội Nguyên, gồm 20 quyển do Phổ Tế soạn vào đời Tống. Được xếp vào Tục Tạng Kinh tập 138.
[6] Dogen, thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253) đệ tử của Như Tịnh Thiên Đồng dòng Tào Động tại Trung Quốc.
[7] Thiền Uyển tập Anh tờ 44b
[8] Bắc Chu Tịnh Đế, niên hiệu Đại Tượng大象 năm thứ hai (580). Thiền Uyển tập Anh ghi là Đại Tường 大祥
[9] Chỉ đất Giao Châu ngày đó
[10] Chùa Pháp Vân nay là chùa Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
[11] TUTA 44b
[12] Tào Sơn Bản Tịch (840-901), đệ tử Động Sơn Lương Giới tông Tào Động..
[13] Lục Tổ > Thanh Nguyên > Thạch Đầu > Dược Sơn>Vân Nham>Động Sơn>Tào Sơn.
[14] Sơ tổ dòng thiền Trúc Lâm tại Việt Nam

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

Chùa Dâu

Trong Thiền Uyển Tập Anh, dòng thiền đến phương Nam trước thời nhà Trần là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường


Dòng thiền đến sớm nhất là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Tổ đến chùa Pháp Vân, gọi là chùa Dâu. Đây được chọn là điểm tham khảo đầu tiên.

Nhắc đến chùa Dâu là nhắc đến Luy Lâu.
Cổ thành Luy Lâu (羸婁) là thủ phủ của Giao Châu từ những năm 111 trước công nguyên. Hiện nay thuộc xã Khương Tự, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Khi đọc lại những khảo cứu của những nhà sử học quan tâm đến Luy Lâu, cho biết quanh thành cổ là sông Dâu. Và dòng sông đã bị lấp từ lâu, có lẽ như lời thơ Tú Xương nói về dòng sông đã lấp:

Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai,
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

Không biết có ai giật mình nghe tiếng gọi đò chăng, nhưng khi đặt chân đến vùng đất Dâu, thì giật mình khi thấy mọi dấu vết thành lũy chỉ còn một bờ đất chạy dài.

Bờ thành Luy Lâu
Những bài học từ thuở nhỏ bỗng chốc thoáng hiện, khi thành Luy Lâu, gắn liền với tên Sỹ Nhiếp (士燮). Thời nào cũng vậy, người nào thương dân, khiêm nhượng với các thuộc hạ, kính trọng các bậc sĩ phu không áp bức ai và có tính tình rất phóng khoáng, thì sống mãi trong lòng người. 

Sự mong đợi một cổ thành thoáng chốc tan đi, chỉ còn những chân cột bằng đá, và những bia đá được khai quật đã không còn đọc rõ chữ, để biết trong lòng bia kia đã chứa đựng những gì. Bây giờ chứng tích khai quật chỉ để biết rằng xưa kia nơi đây có một cổ thành, có một dòng sông… Có những bia đá lặng thinh không lời, mặc cho mọi người phỏng đoán những gì đã từng được gởi gắm nơi bia đá.


1- Chùa Dâu

Tết nên người viếng chùa khá đông.

Cổng vào chùa Dâu, nhìn rêu phong
Nhìn cổng thì thất vọng đôi chút, nhưng thôi bỏ qua tiểu tiết, có lẽ để giữ lại những rêu phong của di tích, nên không thể trùng tu.

Hai câu đối ghi lại thế này:
九層塔百間禪北地伽藍
壹近市弍近江南天勝景
Cửu tầng tháp bách gian thiền bắc địa già lam
Nhất cận thị nhị cận giang nam thiên thắng cảnh.

Lúc ngay đó thì đọc không ra vì chữ “nhất” và chữ “nhị” viết theo lối trang trọng của chữ cổ! Thay vì nhất () và nhị () như chúng ta quen thấy.

Bước vào trong nhìn sơ đồ chùa Dâu:


Nhìn sơ đồ tại chùa Dâu, phía Đông Bắc là chùa Phi Tướng và thành cổ Luy Lâu, xa hơn nữa là chùa Dàn ở Phương Quan (chùa Dàn có tên chữ là “Trí Quả tự” thuộc thôn Phương Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh)

Ra đây mới biết “tên chữ” và “tên gọi”. Chẳng hạn chùa Bồ Đề ở phố Văn Trì, nên có tên chùa Văn Trì, Chùa Phúc Quang ở phố Đình Quán nên có tên chùa Đình Quán…
Và tên chữ chùa Pháp Vân (法雲寺), còn tên gọi là chùa Dâu.

Chùa nằm trong vùng đất Cổ châu nên còn gọi chùa Cổ Châu.

Chùa tên Diên Ứng (延應寺), theo truyền thuyết mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, hay còn thuyết nào nữa không, chưa nghe kể. Còn tấm bia "Phúc Nghiêm tự sự tích bi" niên đại Tự Đức thứ 26 (1873) đặt tại chùa Dâu cho biết đến thời Lý chùa Pháp Vân đổi tên là "Diên Ứng". Lúc đó tên chữ lại là Diên Ứng.

Chùa có rất lâu trước khi tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi đến, theo sử sách thẩm định chùa xây dựng khoảng 187 và hoàn thành năm 226, nhìn biên niên sử sẽ thấy thời Sỹ Nhiếp nhậm chức thái thú tại Giao Châu từ 187-226.

Tổ đến vào năm 580 và mất năm 594. Trước khi đến đây, nếu đi đường bộ thì các tăng sĩ khi về phương Nam đếu qua chùa Chế Chỉ tại Quảng Châu, sau đó theo thương thuyền về Giao Châu là tiện nhất. Các nhà buôn từ phương Tây đến thường ghé Luy Lâu trước rồi đến Quảng Châu, nên Quảng Châu là trở về có lẽ vẫn theo đường như thế, và mường tượng như Tổ theo đoàn tàu từ Quảng Châu đến Luy Lâu, và dừng chân nơi chùa Dâu.

(còn tiếp)

Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Lời ngỏ về Tìm dấu chân Tổ


Chúng tôi có một chuyến du khảo tìm dấu vết các vị Tổ truyền thiền về phương Nam. 
Dấu vết chẳng còn để lại bao nhiêu, chỉ một nỗi man mác.

Nhớ năm xưa, khi Đoàn theo chân Hoà thượng về thăm khánh thành chùa Phật Quang trùng tu, đi qua phà Mỹ Thuận, áo vàng phất phới trên đường ra phà. Một chị bán hàng chạy theo bảo chưa từng thấy Tăng sĩ đông như vậy, hỏi thăm lễ hội gì.

Năm xưa Hoà thượng theo Thầy, nơi bến phà này về Saigon, hình ảnh một tăng sĩ trẻ tuổi áo nâu theo chân thầy. Và ngày hôm đó vị tăng sĩ trẻ tuổi năm xưa đưa đàn con về thăm chốn Tổ.

Bây giờ nếu ai tìm hỏi dấu vết ngày đó, biết chỉ nơi đâu, khi bến phà không còn nữa. Xe qua cầu Mỹ Thuận nhanh chóng, không còn cảnh chờ phà như ngày cũ.

Với tâm tình như thế, đoàn về thăm Chùa Dâu, nơi còn phảng phất dấu chân tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi.